“Công nghiệp phương Tây” về phụ nữ dưới quyền lực đồng tiền – chấp nhận bán mình, làm nô lệ cho những ham muốn thấp hèn – là sản phẩm của một xã hội hỗn tạp thuộc địa của Pháp.
Vũ Trọng Phụng viết “Kỹ nghệ lấy Tây” khi mới 22 tuổi – trước ngưỡng cửa cuộc đời mà đa số thanh niên ngày nay thường đối mặt với ba chữ (thất học, thất nghiệp, thất tình) – ông đã lăn xả trên văn đàn Việt Nam hơn cả 3 năm và ngòi bút được coi là “chín”.
Giữa lúc giao thời, chứng kiến những đám cưới Tây – Ta, tác giả đã đặt ra những câu hỏi: sự phối hợp ăn ý của một số đông phụ nữ trong nước với người phương Tây, liệu có xứng đáng với số phận thật không? Hay chỉ là, giống như, chỉ đáng gọi là một thứ “kỹ thuật”?
Nhưng chừng đó vẫn chưa đủ để tác giả viết phóng sự tự nhiên với nhan đề “Kỹ nghệ cho miền Tây”.
Cho đến một buổi sáng, một bà mẹ miền Tây trước vành móng ngựa đã nói một câu khiến dư luận quên mất mình đang ở nơi trang nghiêm, cứ ngỡ vừa xem bài vừa thích cười. Nhưng hai vị luật sư và vị thẩm phán thì sững sờ nhìn nhau và mỉm cười.
- Đầu tiên kết hôn với một phó phòng, sau đó kết hôn với một người đàn ông …
- Im! Công việc gì chứ ai hỏi chồng!
- Sau đó, lấy một chiếc râu.
- Không có việc làm, phải không? Thất nghiệp (quay sang phán xét). Nghề Sans.
- Việc gì mà không có việc làm?
- Bạn làm nghề gì? Làm việc … làm việc cho phương Tây!
Trước câu trả lời táo bạo của cô, nụ cười của hai giám khảo khiến Vũ Trọng Phụng khó hiểu. Làm sao dám sưng đó? Hay là có nghề với Tây thật? Tại sao hai giám khảo chỉ cười? Chỉ cần tha thứ? Hay hai người họ đã hiểu rằng lời khai này không sai với sự thật đó?
Vì muốn hiểu ý nghĩa của nụ cười ấy, nhà văn họ Vũ vội vàng lên đường, bắt xe đi Thị Cầu – nơi có 300 lính lê dương đóng quân, ít nhất cũng phải đóng được 350 me Tây – cho phỏng vấn. và tìm tài liệu sống, để viết “Công nghiệp ở phương Tây”.
Hành trình đi tìm nguyên nhân nụ cười của hai giám khảo.
Phạm Thế Ngũ đã từng nói rằng, khi đọc những phóng sự của Vũ Trọng Phụng, “Ta thấy được tác giả cần mẫn điều tra, khả năng quan sát, lễ độ của tác giả.”
Tác phẩm “Kỹ nghệ lấy Tây” gồm 10 chương, trừ chương cuối là kết luận, xuyên suốt 9 chương còn lại là quá trình điều tra, thu thập tài liệu của tác giả.
Trong chuyến đi đến xóm Thị Cầu, tác giả đã chứng kiến cuộc “ly hôn” với chồng bằng đám cưới của bà Kiểm lâm. Rõ ràng là tâm sự của cô nàng mang nửa dòng máu Suzanne. một đời người lấy 9 bà vợ của Di-mi-top, bị bà Đới Tử, người chôn sống mẹ, sư tử mất ngôi, dạy con “tẩu” để khỏi chạy trốn … Xem thêm là một cảnh tượng mà tác giả gọi là “kinh khủng” của mẹ con bà Át.
Với khả năng ăn nói khôn ngoan, một chút ranh mãnh theo phương pháp “Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”, vì một nhà báo trẻ và yếu lại nằm loanh quanh nơi có những ông chồng châu Âu ghen tuông, quả thật tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.
Những cuộc phỏng vấn, truy xuất thông tin, ghi âm cuộc trò chuyện, trong đó tác giả đóng vai trò khơi gợi, luôn thường trực trong tâm trí. “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, nhằm lấy thông tin và suy nghĩ chân thực của các đối tượng, thổi vào đó chất hài hước vui nhộn trước một tác phẩm có nội dung khá nặng là tệ nạn xã hội.
“Giường của một con chó chua giống như cái mở của cảnh sát, cũng như cái búa của thợ rèn, cũng như cái cổ của một nghị sĩ Việt Nam. Trong kỹ nghệ phương Tây, những người thợ thủ công chỉ làm việc trên giường. ”
Tình cảm trào phúng đã đưa tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đi xa hơn, khiến ông có thể nhìn nỗi đau qua lăng kính rung động, tạo nên một sức mạnh mới và nỗi đau mà các tác giả cùng thời chưa đạt được. ĐỒNG Ý.
Để rồi khi hiểu được nụ cười của hai vị giám khảo, tác giả vẫn buông lời đùa chua ngoa: “Hơn nữa sao nói nhiều vậy? Sự thật không bao giờ là sự thật.
Sản phẩm của xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Dưới chế độ thực dân nửa phong kiến, Nho giáo tuy bị mai một nhưng vẫn lung lay, kết hợp với làn sóng cưỡng bức xâm nhập từ phương Tây, tạo nên những thay đổi nực cười, đáng xấu hổ, một xã hội văn hóa. Tôi bị điên …
Làm báo, Vũ Trọng Phụng có phong cách của một nhà báo. Anh nói thẳng thắn, thành thật. Anh mô tả đôi chân của mình. Vũ Trọng Phụng dám đưa ra những vấn đề cấm kỵ nhất của xã hội Việt Nam những năm 30, 40 của thế kỷ XX, đó là tình dục, đồng tính, mại dâm … Ông cũng không ngại đi sâu vào những lĩnh vực sâu xa nhất của xã hội để điều tra. sự thật: xã hội cờ bạc, xã hội lấy Tây, xã hội mại dâm, xã hội ở hoa sen …
“Công nghiệp phương Tây” tập trung phản ánh trung thực mọi mặt của xã hội phương Tây đó.
Nói chung, xã hội lấy Tây, kỹ nghệ lấy Tây, vì thợ thủ công trong nghề này có cả nữ và nam. Các mẹ chia chồng Tây thành ba hạng theo phẩm chất giảm dần (số tiền nhận được): xi-vin, thông tục và pê-đê. Còn đàn ông thì coi vợ lẽ như cái mỏ vàng.
Trong thời đại mà tiền có sức mạnh vạn năng. Trong một xã hội mà công lý không đứng về phía lẽ phải, nó nghiêng về phía túi tiền nhiều hơn. Rồi con người cũng thay đổi theo xã hội, bị tha hóa dưới sức ép của đồng tiền. Họ không sống theo đạo đức, nhân nghĩa hay liêm sỉ nữa, họ đặt đồng tiền lên hàng đầu. Và tất nhiên, trong thế giới đó, tình yêu là thứ xa xỉ, tình yêu không tiền mới là thứ tình yêu ngu ngốc.
Vì vậy, nghề đưa Tây thỏa mãn sự thiếu thốn về tiền bạc của người An Nam và sự thiếu thốn về tình dục của những người phương Tây trên đất thuộc địa. Có cung và cầu, có giao dịch thị trường. Ngoài ra còn có cuộc tranh tài của những người trong cuộc từ thiếu nữ đến trai tây, người tây. Có những thác đặc biệt “thỏa thuận mua bán”. Có cảnh học nghề, học nghề và kiếm tiền. Một xã hội nực cười!
Những bà mẹ miền Tây đó, từ thuở còn tươi tốt đến lúc hoa tàn lụi tàn vài con bướm, họ có gì trên đời? Chỉ là những tháng ngày bị chà đạp trong vũng bùn vật chất và bị nô lệ bởi dục vọng thấp hèn của những người lính phương Tây, bị đối xử như gái điếm. Phải chăng, lấy Tây làm mại dâm trá hình núp dưới một xã hội giả định văn minh?
Tấm lòng nhân đạo của nhà văn miêu tả họ Vũ.
Nguyễn Đăng Mạnh cho biết: “Điều quan trọng nhất đối với một nhà văn hiện thực không phải là đi dài hay ngắn, là được“ thăm ”nhiều hay ít. Điều quyết định là trái tim có tham gia hay không, có cống hiến cho những gì bạn học và kể hay không. “
Vũ Trọng Phụng đạt được hơn thế là nhờ tài tả chân với vốn từ thăng hoa sinh động, hơn hết là cái tâm với nghề.
Tác giả đã mượn nụ cười của hai vị giám khảo để làm xuất phát điểm cho bài phóng sự thêm phần phong vị. Nhưng qua cách đặt câu hỏi sau khi nghe câu trả lời của người phụ nữ Tây, tại sao bạn lại dám vênh mặt lên như vậy? Anh tỏ rõ thái độ lên án và chỉ trích cái nghề Tây này, đó là vinh dự mà anh dám mạnh dạn thừa nhận như vậy?
Nhưng khi tiếp cận với những mảnh me Tây ở làng Thị Cầu, thâm nhập vào từng số phận con người, thái độ của nhà văn dần thay đổi. Ở cái làng me miền Tây ấy, có nhiều bà mẹ miền Tây, mỗi người mỗi cảnh. Có những người đáng trách, nhưng những người khác lại đáng thương. Có những mảnh đời là nạn nhân của tà dâm, của lễ giáo phong kiến Nho giáo để rồi đi theo con đường bán rẻ mình cho lính Tây.
Vũ Trọng Phụng chỉ ra một mặt xấu xa của xã hội, giữ thái độ kiên quyết loại bỏ những gì xấu xa nhất. Nhưng anh vẫn tỏ ra thương cảm cho số phận con người. Đặc biệt chú ý đến số phận của những đứa trẻ lai vô thừa nhận.

Những đứa con tinh thần mang gen trội của Vũ Trọng Phụng.
Phùng Tất Đắc có bài tựa “Kỹ nghệ cho Tây” ghi:
“Có vinh dự được sống trong một thời đại có một không hai trong lịch sử, lẽ ra người viết không nên đi thẳng vào trung tâm của thời đại mà hãy khám phá, xem xét, suy nghĩ và ghi lại những tình huống mà mọi người chưa từng thấy. , tình huống người sau không thấy được nữa, tình huống đối với bản thân chỉ có thể nhìn thấy? “
Trang này ở thời đại của ngươi không sai, nhưng là của ngươi sau này, chính là từ đó cho tới bây giờ hình như không chính xác, không chính xác ở chỗ – “Những tình huống sau không xem được nữa ” – khi có một số tình huống của thời đại này vẫn xảy ra, mặc dù có biến tướng của bộ râu nhưng bản chất vẫn vậy.
“Industry for the West” được viết vào năm 1934, sau 85 năm, tác phẩm này vẫn “cuộc sống” – Là “cuộc sống” không chỉ tồn tại.
“Kỹ nghệ Tây” của Vũ Trọng Phụng không chỉ có giá trị nhất thời, không chỉ của những tệ nạn xã hội dưới thời Pháp thuộc mà còn của mọi thời đại. Bởi vì, chỉ cần đổi tên “Công nghiệp cho phương Tây” thành “Công nghiệp cho Mỹ”, và một báo cáo về tình hình phụ nữ ở miền Nam 1954-1975 đã ra đời, hoặc “Công nghiệp cho Hàn Quốc” hoặc ghi là “Công nghiệp hải ngoại “là một phóng viên tin nóng cho năm 2019.
Cũng không chỉ “Kỹ nghệ lấy Tây”, các phóng sự khác của ông, ngay cả tiểu thuyết, như “Số đỏ”, “Con điếm”, “Giông tố”, “Mười sáu”… đều là trẻ con. Đứa con tinh thần có gen mạnh, gen trội. Dù thời gian trôi qua, xã hội có thay đổi thì họ vẫn có khả năng tự tái sinh, nỗi kinh hoàng mà tác phẩm viết về vẫn là những u nhọt của hiện tại, những tính cách mà nhân vật thể hiện vẫn hiện hữu. một phần của những người đương thời.
Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như mở ra một con đường tư tưởng xuyên thấu hiểu lầm của kiếp người, về sự bóc lột của con người, tồn tại ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời nào, nó càng sâu sắc và da diết. dưới các chế độ độc tài mà luật pháp dừng lại ở ngoại vi.
Victor Hugo – một nhà văn Pháp từng nói:“Nếu một nhà văn chỉ viết cho thời đại của mình, tôi sẽ phải bẻ chiếc bút và vứt nó đi.” Vũ Trọng Phụng không phải bẻ và vứt bút, thiên chức của ông đã hoàn thành trọn vẹn.
Duyên